Mô tả Akagi_(tàu_sân_bay_Nhật)

Cấu trúc và hạ thủy

Akagi ban đầu được đặt lườn tại Xưởng hải quân Kure vào ngày 6 tháng 12 năm 1920 như một tàu chiến-tuần dương lớp Amagi. Tuy nhiên công việc chế tạo bị tạm dừng sau khi Nhật Bản ký Hiệp ước Hải quân Washington vào ngày 6 tháng 2 năm 1922. Hiệp ước này giới hạn việc chế tạo thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương, cho dù nó cho phép cải biến hai lườn tàu thiết giáp hạm hay tàu chiến-tuần dương đang chế tạo thành tàu sân bay với trọng lượng choán nước tối đa đến 33.000 tấn Anh (34.000 t). Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã quyết định, sau khi sở hữu chiếc tàu sân bay đầu tiên là chiếc Hōshō, sẽ tiếp tục đóng hai tàu sân bay lớn hơn và nhanh hơn để hoạt động cùng các đơn vị hạm đội chủ lực khác. Các lườn tàu chưa hoàn tất của Amagi và Akagi được chọn để hoàn tất như những tàu sân bay lớn trong khuôn khổ của chương trình chế tạo hạm đội 1924, và những chiếc tàu chiến-tuần dương còn lại trong lớp này là Atago và Takao phải hủy bỏ và tháo dỡ theo Hiệp ước Washington.[1][2][3][4][5] Thoạt tiên một ngân khoản 24,7 triệu Yên được dành cho việc hoàn tất Akagi, và ước lượng khoảng 8 triệu Yên đã được chi ra khi công việc chế tạo ngừng lại vào tháng 2 năm 1922. Không lâu sau đó Quốc hội Nhật Bản chấp thuận một ngân khoảng bổ sung 90 triệu Yên để hoàn tất Amagi và Akagi như những tàu sân bay.[6]

Akagi sau khi được hạ thủy tại Kure, ngày 6 tháng 4 năm 1925

Việc cấu trúc Akagi như một tàu sân bay được bắt đầu vào ngày 19 tháng 11 năm 1923. Tuy nhiên, trong trận động đất Kantō 1923 (Quan Đông đại chấn tai) ngày 1 tháng 9 năm 1923 tại khu vực Tokyo, lườn của Amagi bị hư hại nặng đến mức không thể phục hồi một cách kinh tế, nên nó bị hủy bỏ và tháo dỡ. Akagi, chiếc duy nhất còn lại trong lớp, được hạ thủy vào ngày 22 tháng 4 năm 1925 và đưa ra hoạt động tại Xưởng Hải quân Kure vào ngày 25 tháng 3 năm 1927, cho dù công việc chạy thử máy kéo dài cho đến tận tháng 11 năm 1927. Nó là chiếc tàu sân bay thứ hai được đưa vào hoạt động cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản, sau chiếc Hōshō và trước chiếc Kaga (nguyên cải biến từ lườn một thiết giáp hạm lớp Tosa bị hủy bỏ để thay thế cho Amagi).[1][4][7]

Vì Akagi thoạt tiên được hình thành như một tàu chiến-tuần dương, tên của nó được đặt theo tên một ngọn núi theo thông lệ đặt tên tàu chiến của Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào thời đó. Tên Akagi được đặt theo núi Akagi, một núi lửa lớn tại vùng Kantō. Sau khi được cải tạo thành tàu sân bay, cái tên có nguồn gốc núi này vẫn được giữ lại, tương phản với những tàu sân bay khác như Sōryū, vốn được thiết kế như những tàu sân bay ngay từ đầu và được đặt tên theo những loài chim. Trước đó, tên Akagi được đặt cho một pháo hạm thuộc lớp Maya.[8]

Akagi được hoàn tất với chiều dài chung 261,21 mét (857 ft 0 in). Nó có mạn thuyền rộng 31 mét (101 ft 8 in) và độ sâu mớn nước 8,08 mét (26 ft 6 in) khi đầy tải. Con tàu có trọng lượng choán nước 26.900 tấn Anh (27.300 t) ở tải trọng tiêu chuẩn, và 34.364 tấn Anh (34.920 t) khi đầy tải, nhẹ hơn gần 7.000 tấn Anh (7.100 t) so với trọng lượng thiết kế như một tàu chiến-tuần dương.[9] Thủy thủ đoàn đầy đủ của nó gồm 1.600 thành viên.[10]

Sự bố trí sàn cất-hạ cánh

Akagi và Kaga được hoàn tất với ba sàn cất-hạ cánh xếp thượng tầng, là những tàu sân bay duy nhất trên thế giới được thiết kế như vậy. Các tàu sân bay Anh Quốc Glorious, CourageousFurious, nguyên được cải biến từ những "tàu tuần dương nhẹ lớn", mỗi chiếc có hai sàn cất-hạ cánh, nhưng không có chứng cứ gì là người Nhật đã sao chép kiểu mẫu của người Anh. Rất có thể đây là sự tiến hóa mang tính hội tụ những biện pháp nhằm phóng lên càng nhiều máy bay càng tốt. Sàn đáp chính của Akagi dài 190,2 mét (624 ft 0 in); sàn giữa, bắt đầu ngay phía trước cầu tàu, chỉ dài 15 mét (49 ft 3 in); và sàn dưới dài 55,02 mét (180 ft 6 in). Nghi vấn đặt ra về sự tiện dụng của sàn giữa bởi vì nó quá ngắn, chỉ một số máy bay tải trọng nhẹ mới có thể sử dụng được, ngay cả vào thời đại mà máy bay nhỏ và nhẹ hơn nhiều so với thời Thế Chiến II.[11] Sàn đáp phía trên được nghiêng nhẹ từ giữa tàu ra phía mũi và về phía đuôi để hỗ trợ cho việc cất cánh và hạ cánh của những máy bay yếu công suất vào thời đó.[2]

Akagi đang chạy thử máy ngoài khơi bờ biển Iyo, ngày 17 tháng 6 năm 1927, cho thấy rõ cả ba sàn cất-hạ cánh

Khi hoàn tất, con tàu có hai hầm chứa máy bay (hangar) chính và một hầm phụ thứ ba, có thể chứa tổng cộng 60 máy bay. Hầm thứ ba ở thấp nhất chỉ dùng để chứa những phần máy bay tháo rời. Hai hầm chính mở ra vào sàn cất cánh giữa và sàn cất cánh dưới, cho phép máy bay cất cánh trực tiếp từ hầm chứa, trong khi hoạt động hạ cánh diễn ra ở sàn trên. Hai hầm chính ở giữa và trên có diện tích tổng cộng khoảng 80.375 foot vuông (7.467,1 m2), trong khi diện tích của hầm dưới là 8.515 foot vuông (791,1 m2). Máy phóng không được trang bị. Thang nâng máy bay phía trước được đặt lệnh sang mạn phải và có kích thước 11,8 nhân 13 mét (38 ft 9 in × 42 ft 8 in); thang nâng phía sau đặt trên trục giữa và có kích thước 12,8 nhân 8,4 mét (42 ft 0 in × 27 ft 7 in), phục vụ cho sàn đáp bên trên và cả ba hầm chứa máy bay. Hệ thống dây hãm của nó là kiểu dọc do người Anh phát triển để sử dụng trên chiếc Furious, chúng không đáp ứng do dựa vào ma sát giữa móc hãm và dây cáp. Người Nhật nhận biết rõ khuyến khuyết của hệ thống này, do đã áp dụng trên chiếc tàu sân bay đầu tiên của họ là Hōshō, nhưng chưa có giải pháp thay thế vào lúc Akagi hoàn tất. Nó được thay thế trong đợt tái trang bị năm 1931 với hệ thống cáp ngang gồm 6 dây do Nhật Bản thiết kế, rồi đến lượt nó lại bị thay thế vào năm 1935 bằng loại Kaga Kiểu 4 (Kure shiki 4 gata). Khi chiếc tàu sân bay hoàn tất, nó không có đảo cấu trúc thượng tầng; con tàu được chỉ huy từ một vị trí bên dưới đầu trước của sàn đáp phía trên.[11][12][13] Con tàu mang theo khoảng 150.000 galông Mỹ (570.000 l) xăng máy bay cho lực lượng không lực trên tàu.[14]

Khi hoàn tất, Akagi mang theo một phi đoàn bao gồm 28 máy bay ném bom-ngư lôi Mitsubishi B1M3, 16 máy bay tiêm kích Nakajima A1N và 16 máy bay tuần tiễu Mitsubishi 2MR.[9]

Vũ khí và vỏ giáp

Akagi được trang bị mười khẩu pháo 20 cm (7,9 in)/50 caliber, gồm sáu khẩu trong các tháp pháo ụ phía đuôi và số còn lại trong hai tháp pháo nòng đôi đặt hai bên sàn cất cánh giữa. Chúng bắn ra đạn pháo nặng 110 kilôgam (240 lb) với tốc độ 3 đến 6 phát mỗi phút, với lưu tốc đầu đạn 870 m/s (2.900 ft/s); ở góc nâng 25°, chúng cho phép đạt tầm xa tối đa 22.600–24.000 mét (24.700–26.200 yd). Các tháp pháo này trên danh nghĩa có thể nâng cho đến góc 70° để cung cấp hỏa lực phòng không bổ sung, nhưng trong thực tế góc nâng tối đa chỉ đạt được 55°. Tốc độ bắn chậm và góc nạp đạn cố định ở 5° làm triệt tiêu mọi khả năng phòng không.[15] Dàn hỏa lực hạng nặng này được bố trí trong trường hợp nó bị tấn công bất ngờ bởi tàu tuần dương đối phương và bị buộc phải tham chiến; nhưng sàn cất-hạ cánh lớn và mong manh, hầm chứa máy bay và cấu trúc thượng tầng làm cho nó trở thành một mục tiêu nổi bật hơn mọi tàu chiến trong các cuộc đụng độ mặt biển. Học thuyết về tàu sân bay vẫn còn đang được phát triển vào lúc đó, và người ta chưa nhận thức được sự phi thực tế của việc đấu pháo tay đôi của tàu sân bay.[16][17][Note 1]

Akagi trên đường đi vào năm 1929 với máy bay trên sàn đáp trên và hai tháp pháo trên sàn cất cánh giữa

Con tàu cũng trang bị vũ khí dành riêng phòng không gồm sáu khẩu 12 cm (4,7 in)/45 caliber nòng đôi, bố trí mỗi bên mạn ba khẩu đội trên những bệ nhô bên dưới mức các ống khói, nơi chúng không thể bắn chéo qua mạn của sàn đáp.[18] Các khẩu pháo này bắn ra đạn pháo nặng 20,3 kilôgam (45 lb) với lưu tốc đầu đạn 825–830 m/s (2.710–2.720 ft/s); ở góc nâng 45° chúng cho phép đạt tầm xa tối đa 16.000 mét (17.000 yd), và có được trần bắn tối đa 10.000 mét (11.000 yd) ở góc nâng 75°. Tốc độ bắn hiệu quả của kiểu vũ khí này là từ 6 đến 8 phát mỗi phút.[19]

Đai giáp của Akagi có độ dày được giảm từ 254 mm (10 in) xuống còn 152 mm (6 in), và được đặt thấp hơn trong lườn tàu so với thiết kế ban đầu. Phần trên của bầu chống ngư lôi có lớp giáp dày 102 mm (4 in). Độ dày vỏ giáp sàn tàu cũng được giảm từ 96 mm (3,8 in) xuống còn 79 mm (3,1 in).[20] Các cải biến này đã cải thiện độ ổn định của con tàu bằng cách giúp bù trừ phần trọng lượng nặng bên trên của hai hầm chứa máy bay chính.[2]

Động lực

Trên chiếc tàu sân bay Hōshō dẫn trước, khí nóng thoát ra từ các ống khói xoay tròn tạo ra sự nhiễu động là một mối đe dọa cho con tàu; những thử nghiệm trong hầm gió không đề xuất được giải pháp nào. Vì vậy Akagi và Kaga được cung cấp những giải pháp khác nhau để đánh giá trong điều kiện hoạt động thực tế. Akagi được bố trí hai ống khói bên mạn phải. Ống khói phía trước lớn hơn được nghiêng một góc 30° bên dưới với miệng ống hướng xuống biển, và ống khói nhỏ hơn thoát theo hướng thẳng đứng cách một khoảng đối với sàn đáp. Ống khói phía trước được trang bị một hệ thống làm mát bằng nước để giảm thiểu sự nhiễu loạn do hơi nóng thoát ra, và một nắp che có thể nâng cao để khí thải có thể thoát trong trường hợp con tàu bị nghiêng nặng và miệng ống khói chạm đến mặt nước. Kaga áp dụng một phiên bản của cấu hình này khi nó được hiến đại hóa vào giữa những năm 1930.[2][21]

Akagi được hoàn tất với bốn bộ turbine hơi nước Gihon, mỗi bộ dẫn động một trục chân vịt, tạo ra tổng công suất 131.000 mã lực càng (98.000 kW). Hơi nước cho các turbine được cung cấp bởi 19 nồi hơi Kampon Kiểu B với áp suất hoạt động 20 kg/cm2 (1.961 kPa; 284 psi). Một số nồi hơi được đốt dầu, trong khi số khác sử dụng một hỗn hợp dầuthan. Khi được thiết kế như một tàu chiến-tuần dương, nó được hy vọng sẽ đạt tốc độ tối đa 28,5 hải lý trên giờ (52,8 km/h; 32,8 mph), nhưng việc giảm trọng lượng choán nước từ 41.200 tấn Anh (41.900 t) xuống còn 34.000 tấn Anh (35.000 t) đã giúp gia tăng tốc độ tối đa lên 32,5 hải lý trên giờ (60,2 km/h; 37,4 mph), vốn đã đạt được khi chạy thử máy vào ngày 17 tháng 6 năm 1927. Trữ lượng nhiên liệu của nó bao gồm 3.900 tấn Anh (4.000 t) dầu và 2.100 tấn Anh (2.100 t) than, cho phép nó tầm hoạt động 8.000 hải lý (15.000 km; 9.200 dặm) ở tốc độ đường trường 14 hải lý trên giờ (26 km/h; 16 mph).[22]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Akagi_(tàu_sân_bay_Nhật) http://156.112.98.23/branches/mca-m.html http://www.awm.gov.au/histories/second_world_war/v... http://www.combinedfleet.com/Akagi.htm http://ww2db.com/ship_spec.php?ship_id=10 http://www.history.navy.mil/photos/sh-fornv/japan/... //tools.wmflabs.org/geohack/geohack.php?language=v... //www.worldcat.org/oclc/565962619 http://books.google.com.vn/books?id=krvlaQ5PQOQC&p... https://archive.is/20121210201458/http://156.112.9... https://archive.org/details/barrierjavelin00hpwi